Chứng mất trí trước thái dương khác biệt như thế nào và các dấu hiệu cảnh báo là gì?


Khi hầu hết mọi người nghe nói về chứng mất trí nhớ, họ hình dung ra những người lớn tuổi bị mất trí nhớ. Nhưng không phải tất cả các loại sa sút trí tuệ đều bắt đầu bằng mất trí nhớ.

Cũng giống như ung thư có thể được phân loại là khối u ác tính, ung thư tuyến tiền liệt hoặc ung thư ruột, chứng sa sút trí tuệ cũng có thể được phân thành nhiều loại khác nhau. Loại phổ biến nhất là bệnh Alzheimer, ảnh hưởng đến các bộ phận của não chịu trách nhiệm về trí nhớ.

Trong các loại sa sút trí tuệ khác, các triệu chứng đầu tiên có thể bao gồm những thay đổi về tính cách và hành vi. Những loại triệu chứng này nổi bật trong chứng sa sút trí tuệ vùng trán thái dương.

Chứng mất trí nhớ vùng trán thái dương là nguyên nhân phổ biến gây chứng mất trí nhớ ở những người dưới 65 tuổi. Nghiên cứu mới đây đã giúp chúng ta hiểu được các triệu chứng phổ biến của chứng bệnh này.

Triệu chứng

Những người mắc chứng sa sút trí tuệ vùng trán thái dương bị teo (hoặc co rút) thùy trán của não. Các thùy trán rất quan trọng để kiểm soát hành vi tự nguyện, cảm xúc và suy nghĩ phức tạp.

Một người chăm bệnh đã mô tả cách chồng cô ấy tiếp cận những phụ nữ trẻ một cách không thích hợp, thường xuyên cắt ngang cuộc trò chuyện và đưa ra những nhận xét xúc phạm về ngoại hình của người khác. Điều này hoàn toàn không giống với tính cách của anh ta.

Các triệu chứng rất đa dạng và có thể khác nhau từ người này sang người khác.

Hiện tại không có xét nghiệm chẩn đoán chứng mất trí trước thái dương. Vì vậy, để chẩn đoán chứng mất trí trước thái dương, chúng ta dựa vào đánh giá cẩn thận các triệu chứng của một người. Sáu triệu chứng chính được công nhận và bệnh nhân phải thể hiện sự kết hợp của các triệu chứng này để được chẩn đoán.

  1. Một số người đưa ra quyết định bốc đồng (còn được gọi là sự ức chế). Những người mắc chứng mất trí trước thái dương thường chi tiêu quá mức, đánh bạc hoặc mua những món đồ mà họ ít sử dụng. Điều này làm cho họ đặc biệt dễ bị lừa đảo tài chính hoặc khai thác. Trong một trường hợp, một người đàn ông đã gửi một số tiền lớn cho tổ chức mà anh ta nghĩ là một tổ chức từ thiện, đến mức anh ta phải rút tiền hưu bổng và bán căn nhà của mình để trang trải khoản nợ khổng lồ mà anh ta đã gánh chịu.
  2. Những người khác trở nên thờ ơ hoặc mất động lực hoặc hứng thú làm việc. Nếu để mặc họ, một người mắc chứng mất trí nhớ trước thái dương sẽ thường ngồi trước tivi, không thể bắt đầu bất kỳ hành vi có mục đích nào. Họ tỏ ra mất hứng thú với các hoạt động hoặc sở thích mà trước đây họ yêu thích và yêu cầu được nhắc nhở để tham gia với những người khác. Nghiên cứu về chứng mất trí trước thái dương đã liên kết sự thờ ơ với tổn thương ở những vùng quan trọng của hệ thống tưởng thưởng (reward system) trong não.
  3. Một số cá nhân suy giảm sự đồng cảm, nghĩa là mất đi khả năng hiểu và chia sẻ cảm xúc với người khác. Những người chăm sóc bệnh thường báo cáo rằng những người thân yêu của họ không còn phản ứng thích hợp với cảm xúc của người khác. Sự thiếu quan tâm rõ ràng này đôi khi có thể bị hiểu sai là tự cho mình là trung tâm. Nghiên cứu mới của cho thấy những người mắc chứng mất trí nhớ phía trước thái dương gặp khó khăn trong việc diễn giải thông tin khuôn mặt rất quan trọng để nhận biết cảm xúc.
  4. Những thay đổi trong hành vi ăn uống có thể xảy ra ở những người mắc chứng mất trí trước thái dương. Họ thường ăn quá nhiều hoặc tỏ ra thích đồ ăn có đường hơn (ví dụ như ăn hai hộp kem mỗi tối). Những thay đổi trong hành vi ăn uống này có liên quan đến sự gián đoạn đối với hệ thống nội tiết, hệ thống tự trị và xử lý phần thưởng của não.
  5. Một số người mắc chứng mất trí nhớ trước thái dương có các kiểu hành vi lặp đi lặp lại hoặc theo nghi thức. Ví dụ bao gồm nỗi ám ảnh về việc đếm và xem đồng hồ, sở thích bị hạn chế trong các hoạt động giải trí hoặc sở thích và tuân thủ nghiêm ngặt một số thói quen hàng ngày hoặc sở thích ăn uống.
  6. Những người mắc chứng mất trí nhớ trước trán thường gặp vấn đề với suy nghĩ phức tạp. Các nhiệm vụ như lên kế hoạch cho chuyến đi khám bác sĩ hoặc tính toán số tiền lẻ chờ được thối từ nhân viên thu ngân chẳng hạn có thể là một thách thức.
Một số người mắc chứng mất trí trước thái dương đưa ra những quyết định bốc đồng như chi tiêu quá mức hoặc đánh bạc. (Shuttlestock)

Nguyên nhân

Các thành viên gia đình của bệnh nhân sa sút trí tuệ vùng trán thái dương thường thấy những thay đổi hành vi này gây khó chịu và khó giải quyết hơn là mất trí nhớ. Bởi vì những thay đổi này có vẻ rất đa dạng và không liên quan đến nhau, nghiên cứu hiện tại và thực hành lâm sàng có xu hướng điều trị từng triệu chứng riêng biệt. Và các phương pháp điều trị có sẵn bị hạn chế về hiệu quả.

Trong bài đánh giá gần đây của chúng tôi, chúng tôi đã xác định được một sợi dây chung liên kết các triệu chứng hành vi dường như không liên quan này. Có vẻ như sự chán nản, thờ ơ, giảm sự đồng cảm, ăn quá nhiều và các hành động lặp đi lặp lại đều có thể bắt nguồn từ việc thu hẹp các vùng não kiểm soát hành vi hướng đến mục tiêu.

Hành vi hướng đến mục tiêu cho phép chúng ta sửa đổi hành động của mình để đạt được những mục tiêu hoặc mong muốn nhất định. Ví dụ, nếu bạn cảm thấy khát, bạn sẽ đến tủ lạnh và lấy đồ uống. Nếu bạn muốn thăng tiến trong công việc, bạn sẽ làm việc chăm chỉ và đảm bảo rằng bạn không xúc phạm đồng nghiệp của mình. Nếu bạn thích trượt tuyết, bạn có thể thực hiện một chuyến đi trượt tuyết.

Khi hệ thống hành vi hướng đến mục tiêu của não gặp trục trặc, một cá nhân có thể gặp khó khăn trong việc lựa chọn tiếp tục ăn mặc dù đã cảm thấy no, phản ứng với sự đau khổ của người khác, tiếp cận người lạ hoặc tham gia vào sở thích của họ. Do mất kiểm soát hướng đến mục tiêu, hành vi có thể bị hạn chế và lặp đi lặp lại.

Rồi sẽ đi đến đâu?

Nhận thức hạn chế về chứng mất trí trước thái dương và sự đa dạng của các triệu chứng thường dẫn đến chẩn đoán sai hoặc chẩn đoán chậm trễ. Thay đổi hành vi có xu hướng bị nhầm lẫn với các triệu chứng trầm cảm hoặc rối loạn tâm thần.

Giáo dục công chúng và các chuyên gia y tế về các loại sa sút trí tuệ khác nhau và sự đa dạng của các triệu chứng là một bước quan trọng trong việc rút ngắn thời gian chẩn đoán bệnh.

Trong trường hợp không có cách chữa trị, một thách thức lớn là phát triển các chiến lược quản lý phù hợp và hiệu quả cho những người mắc chứng mất trí nhớ. Chúng ta hy vọng nghiên cứu mới này có thể giúp tìm ra biện pháp can thiệp cho những triệu chứng thường bị hiểu lầm này.

Nguồn: The Conversation.


Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *